ĐỀ BÀI : Soạn bài: Buổi học cuối cùng
I. Bố cục
Chia làm ba phần:
– Phần 1 (từ đầu tới "mà vắng mặt con"): quang cảnh trên đường tới trường và cảnh ở trường qua sự quan sát của Phrăng.
– Phần 2 (tiếp đó tới "buổi học cuối cùng này"): diễn biến về buổi học cuối cùng khi ở trong lớp học
– Phần 3 (còn lại): buổi học cuối cùng kết thúc.
Câu 1:
Câu chuyện được kể diễn ra ở tại một lớp học của một xã thuộc vùng đất An-dát của nước Pháp. Thời gian sau cuộc chiến tranh Pháp – phổ thì nước Pháp đã thua trận phải cắt đi vùng An-dát cho nước Phổ. Theo như lệnh của chính quyền Phổ thì trường học ở đây lại không được dạy tiếng Pháp nữa."Buổi học cuối cùng" là buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng, chứ không phải là buổi học kết thúc cho niên học.
Câu 2:
– Ngôi kể: Ngôi thứ nhất –> Nhân vật Phrăng.
– Tác dụng: cách kể giúp cho câu chuyện diễn ra thật hơn đồng thời cũng thể hiện được tâm trạng và ý nghĩa của nhân vật đang kể chuyện.
– Nhân vật chính: Cậu bé Prăng và thầy giáo Ha-men. Ngoài ra còn có một số nhân vật phụ khác như là (cụ Hô-de, các học trò, dân làng, …)
Câu 3:
Vào sáng hôm diễn ra buổi học cuối cùng thì chú bé Phrang đã nhìn thấy được những điều khác lạ khi ở trên đường và cả trong lớp.
Trên đường đến trường có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị. Trường học không ồn ào mà lại "Bình lặng như một buổi sáng chủ nhật".
Trong lớp học không khí rất trang trọng, thầy Hamen mặc lễ phục, thầy hôm nay lại dịu dàng chứ không giận dữ. Có thêm cả cụ Hôde, bác phát thư và nhiều người dân làng ngồi ở cuối lớp. Chính điều đó cho thấy đây là buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp.
Câu 4:
– Khi nghe thầy Ha-men thông báo đây là buổi học cuối cùng, thái độ của Phrăng:
Lúc đầu thì choáng váng sau đó là tiếc nuối vì mình chưa thành thạo tiếng Pháp. Và cuối cùng đó là sự ân hận về sự lười học ham chơi của bản thân.
– Khi bị thầy giáo gọi lên đọc bài hình ảnh của Phrăng hiện:
Lúng túng, đung đưa người trước ghế dài vì không thuộc bài.
Lòng rầu rĩ không dám ngẩng đầu lên.
Có thể nhận thấy ngay rằng lúc này đây Phrăng cảm thấy xấu hổ, giận mình vì đã không thuộc hết quy tắc phân từ, hối hận vì cậu đã không chăm chỉ học tiếng Pháp.
Khi thầy đọc bài và giảng bài thì chưa bao giờ cậu thấy hiểu rõ và dễ hiểu tới thế và cũng chưa bao giờ chăm chú lắng nghe tới như thế.
– Nguyên nhân: đó là tình yêu tiếng Pháp và đất nước bùng lên khi nghe tiếng mình bị cấm đoán, bị thay thế bằng một thứ tiếng khác.
Chúng ta có thể thấy phrang là một chú bé hồn nhiên, chân thật, biết lẽ phải , yêu tiếng Pháp và đặc biệt là quý trọng biết ơn thầy, người đã dạy mình .
Câu 5: Nhân vật thầy giáo Hamen trong buổi học cuối cùng
– Bộ lễ phục thầy mặc là vào những lúc có thanh tra hoặc là phát thưởng :”áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu”.
– Thầy nói nhẹ nhàng không quát mắng và chuẩn bị bài giảng rất chu đáo,
Thầy ca ngợi tiếng Pháp , tự phê bình mình và mọi người đã có lúc làm sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Thầy xem tiếng Pháp chính là vũ khí , cũng là chìa khóa của chốn lao tù.
Buổi học kết thúc thì thầy xúc động mạnh, người tái nhợt đi, nghẹn ngào không nói được một câu nào . thầy đã viết thật to lên bảng bằng câu : "Nước Pháp muôn năm".
Tóm lại: Thầy Hamen là người yêu nghề dạy học, người yêu nước sâu sắc và yêu tiếng mẹ đẻ,.
Câu 6:
– Một số câu văn dùng phép so sánh:
+ Tất cả những cái đó (nghe sáo hót, nhìn lính Phổ tập) cám dỗ tôi hơn là các quy tắc về phân tử.
+ Tiếng ồn ào như vỡ chợ.
+ Mọi sự đều bình lặng y như buổi sáng chủ nhật.
+ Dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi.
Lời so sánh giúp cho câu văn tạo nên hình tượng cụ thể và tăng thêm sức gợi cảm cho sự diễn đạt, biểu hiện được tư tưởng và tình cảm một cách sâu sắc.
Câu 7:
Câu nói của thầy Ha-men "… khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa của chốn lao tù …". Câu nói này đã khẳng định được giá trị to lớn của tiếng nói dân tộc, nếu như còn giữ được tiếng nói là giữ được phương tiện đấu tranh để giành lại độc lập tự do .