Đề bài: Các anh(chị) soạn bài tiếng hát con tàu văn 12.
I. Giới thiệu:
1. Tác giả
– Chế Lan Viên ( 1920- 1989), tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, ở Quảng Trị. Bản thân: rất rất đa tài vừa có thể dạy học, làm báo, làm thơ, làm cách mạng
– Sự nghiệp sáng tác:
Thơ Chế Lan Viên có sự chuyển hướng trong tư tưởng bước từ thế giới kinh dị thần bí sang thế giới rộng lớn của nhân dân đất nước. Phong cách thơ: giàu chất suy tưởng mang vẻ đẹp trí tuệ phong phú nhiều tìm tòi đổi mới về nghệ thuật
• Các tác phẩm chính như: Điêu Tàn (1937), ánh sáng và phù sa(1960)…
2. Bài thơ tiếng hát con tàu
– Hoàn cảnh sáng tác: trong bối cảnh những năm 1958 – 1960 Đảng ta vận động thanh niên miền xuôi đi theo khai hoang phát triển kinh tế ở vùng Tây Bắc. Nhà thơ Chế Lan Viên không đi được vì đang nằm trên giường bệnh. Xuất phát từ lòng biết ơn, sự gắn bó với nhân dân với những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình Chế Lan Viên đã làm bài thơ này để theo con tàu tâm tưởng đến với Tây Bắc
– Tiếng hát con tàu được in trong tập ánh sáng và phù sa
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Lời đề từ:
Thể hiện khát vọng mong muốn của nhà thơ cùng anh em đến vùng đất xa xôi kia để giúp đỡ nhân dân khai hoang. Đó phải chăng là lý tưởng của một người chiến sĩ yêu quê hương đất nước Bốn câu đề từ nêu lên hai hình ảnh lớn đó là con tàu và Tây Bắc
• Con tàu: khát vọng lên đường đến với nhân dân đất nước
• Tây Bắc biểu tượng cho miền đất xa xôi của Tổ Quốc
– Có sự đồng nhất giữa tâm hồn ta là con tàu và tâm hồn ta là Tây Bắc
2. Phân tích
a. Hai khổ thơ đầu là sự trăn trở và mời gọi lên đường
– Các nghệ thuật nhân hóa, câu hỏi tu từ, đối lập tác giả đã thể hiện khao khát được lên đường
– Bạn bè anh đều lên đường hết chỉ còn anh giữ trời Hà Nội, anh cũng muốn lên đường giúp đỡ bà con Tây Bắc
– Vùng đất Tây Bắc chính là điểm để anh gặp thơ của mình. Chế Lan Viên mong muốn được cống hiến hết mình khi còn đứng trên mặt đất này
Biện pháp tu từ cùng giọng văn nhẹ nhàng sâu lắng kết hợp với ước nguyện khát khao của mình nhà thơ đã trình bày nỗi lòng của mình cho người đọc thấu hiếu.
b. Niềm vui khi được trở về với nhân dân Tây Bắc
– Nhà thơ thể hiện niềm vui khi được trở lại với nhân dân. Đó là mười năm kháng chiến gian nan. Tình quân dân như thắm đượm nhà thơ như cảm nhận được niềm vui khi gặp lại nhân dân
– Câu thơ so sánh niềm vui của nhà thơ khi gặp lại nhân dân thể hiện một cách chân thật đầy tình cảm.
Đó là niềm vui như thiên nhiên đẹp nhất, như những phút sum họp hiếm hoi. Thế rồi nhà thơ nhớ đến người anh du kích, chiếc áo nâu công đồn để lại cho nhà thơ, người em liên lạc hi sinh dũng cảm, người mế tần tảo coi nhà thơ như con đẻ .Người dân Tây bắc như những người thân trong gia đình
– Nỗi nhớ về thiên nhiên tây Bắc bản sương giăng đèo mây phủ và cuối cùng nhà thơ kết thúc nỗi nhớ ấy bằng một câu thơ rất triết lý và nó đúng đến tận ngày nay
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Câu thơ mang nhiều triết lí sâu sắc
– Gợi nhớ đến người con gái Tây Bắc xinh đẹp ngày nào, nhớ thường trực như mùa đông thì tất yếu phải có rét. Nhớ những vắt xôi mà em dấu giữa rừng để nuôi quân
c. Khúc hát lên đường
– Con tàu đã tới nơi mà nó cần đến đó chính là Tây Bắc bao la hùng vĩ mà cũng thiêng liêng. Nơi đó có những con người mà nhà thơ yêu quý, nào em, nào mế, nào đồng chí đồng đội. nhà thơ mong chắp thêm đôi cánh để có thể bay tới đó nhanh hơn
– Những hình ảnh khoảnh khắc được miêu tả chính là nỗi nhớ về Tây Bắc, nhớ những mùa lúa rì rào, và nhà thơ theo con tàu mộng tưởng Tây Bắc chính là hồn của thơ
III. Tổng kết
– “ Tiếng hát con tàu “vừa mang tính triết lý vừa mang một tình cảm thiêng liêng. Đó là tình yêu quê hương đất nước, tình quân dân, tình yêu nam nữ.
– Lối so sánh độc đáo gợi hình và đầy ấn tượng
– Nhiều câu thơ mang tính triết lí cao